Trong tiết trời se lạnh của một chiều thu Hà Nội, chúng tôi tìm đến không
gian riêng của nhạc sĩ Phạm Tuyên tọa lạc ở tầng ba một khu chung cư khá kín
đáo và yên tĩnh. Đón tiếp chúng tôi ở cửa là một ông già phúc hậu, với ánh nhìn
trìu mến và giọng nói trầm ấm, âm vang, ông đã đưa chúng tôi quay lại 40 năm về
trước để cùng sống lại những cảm xúc của một thời kì lịch sử hào hùng của dân
tộc ta.
Nhạc sĩ Phạm Tuyên sinh ra và lớn lên ở phố Hàng Da (quận Hoàn Kiếm)
trong một gia đình giàu truyền thống văn hóa.
Truyền thống ấy như chất xúc tác giúp người nghệ sĩ này luôn bản lĩnh,
vững vàng, nhưng không kém phần thăng hoa để tiến lên đỉnh cao âm nhạc. Với sự
nghiệp sáng tác bền bỉ, nỗ lực không ngừng của mình, ông đã cho ra đời một khối
lượng tác phẩm đồ sộ khiến mọi người nể phục. Trong kho tàng phong phú đấy bên
cạnh những bài hát tươi vui, nhẹ nhàng, trong sáng, giản dị và giàu tình yêu
với quê hương đất nước dành cho thiếu nhi, người lao động, chị em phụ nữ thì
không thể không nhắc đến những bài hát ghi lại khí thế hừng hừng chống thực dân
Pháp, đế quốc.
|
Nhạc sĩ Phạm Tuyên |
Nhạc sĩ Phạm Tuyên năm nay đã ngoài 80 tuổi. Tóc bạc, da mồi nhưng ánh
mắt ông vẫn ngời sáng và nụ cười vẫn tràn đầy nhiệt huyết khi hồi tưởng về
những đứa con tinh thần của mình “… Có
những bài ca được viết ra trong lúc phấn khởi, hào hứng, hoặc lúc dạt dào xúc
cảm và người viết mong đợi có được sự cộng hưởng của nhiều người, được bay xa
và hồi hộp theo dõi sức sống của nó trong công chúng và thời gian. Nhưng cũng
có những bài ca được viết ra như một sự động viên chính mình. Trong một bối cảnh
thật quyết liệt, mà bản thân người viết ra nó không chắc mình có còn được nghe
nó vang lên thành âm thanh nữa hay không, chứ chưa nói tới việc trông đợi nó
được phổ biến rộng rãi tới mọi người. Cũng có thể nói đó là trường hợp của bài
hát Hà Nội – Điện Biên Phủ.”
Theo lời kể của ông thì năm 1972, ông cùng một
số anh em nhạc sĩ được cử ở lại Hà Nội để trực về công tác phát thanh văn nghệ
trên làn sóng truyền thanh, trong khi đại bộ phận anh em trong cơ quan đang hòa
vào dòng người tấp nập đi sơ tán theo đúng chủ trương chỉ đạo của Đảng. Mặc dù
tất cả mọi người đều cùng được thông báo về khả năng địch sẽ ném bom các cơ sở
của Đài nếu chúng tấn công vào Hà Nội, nhất là khu vực phố Quán Sứ, nơi có trụ
sở chính của Đài - nằm trong trọng điểm ném bom của địch vì đế quốc Mỹ ý thức
được rất rõ tác dụng to lớn của lời thơ, tiếng nhạc trên làn sóng của Đài Trung
ương trong những ngày cuối năm 1972 này đối với đồng bài cả nước, nhất là đối
với chiến sĩ và đồng bào ở tiền tuyến lớn miền Nam; nhưng khi sự việc xảy ra ai
ai cũng không khỏi bàng hoang trước sự tàn bạo và khốc liệt mà mình đang trực
tiếp chứng kiến.
Ngày 18/12/1972, và 4 giờ
sáng ngày 19/12, Đài phát sóng lớn của ta ở Mễ Trì (ngoại thành Hà Nội) đã bị
địch đánh sập. Trưa hôm đó, khoảng 11 giờ 30, địch ném bom Đài phát sóng Bạch
Mai (Ngã Tư Vọng) và đó cũng là khu tập thể mà ông đang ở. Hình như còn thấy
cuộc oanh kích trên là chưa đủ để hủy diệt sức sống mãnh liệt của quân, dân Hà
nội nên sáng 22/12, từ 4 giờ sáng địch lại dùng B52 ném bom rải thảm khu vực
này một lần nữa. Và lần này chúng đã đạt được mục đich khi biến khu tập thể thành
một đống gạch vụn, nhà cửa tan hoang, đổ nát. Trưa hôm đó, từ nơi trực ở phố
Quán Sứ, ông vội đạp xe về xem lại căn nhà của mình ở khu tập thể. Vệt bom đã
đi đúng vào căn nhà bé nhỏ nằm gọn trong khu tập thể. Chiếc đàn dương cầm hằng
ngày gắn bó với những lời thơ, nốt nhạc của người nghệ sĩ nay bị vỡ thành nhữngmảng
lớn, phím đàn xộc xệch. Giường ngủ, tủ sách bị sập gãy, vôi vữa của tường nhà
và trần bị sụp đổ hoàn toàn. Sách nhạc, bản nhạc bị cháy xém nằm ngổn ngang
trong căn nhà tốc mái…
Trên đường về cơ quan, ông
không khỏi xúc động khi chứng kiến cảnh ga Hàng Cỏ, phố Khâm Thiên, Bệnh viện
Bạch Mai hoang tàn xơ xác vì bom đạn quân thù. Tuy nhiên chính trong khoảnh
khắc đó lòng ông lại lại trào dâng lên một cảm giác rất lạ: vừa đau thương, mất
mát lại vừa quá đỗi tự hào. Vì khi nhà cửa đổ nát, tan hoang , các gia đình hầu
như đều đi sơ tán hết thì ở khu phố Khâm Thiên không nhà nào khóa cửa và tuyệt
đối không có nạn trộm cắp, hôi của… Thay vào đó, dân Hà Nội tất bật dọn dẹp lại
nhà cửa, đường phố trật tự, ngăn nắp. Khi mà nỗi đau “chẳng phải của riêng ai”,
chung quanh mình còn rất nhiều cảnh thương tâm, ông bỗng nhiên thấy ấm lòng
trước nghĩa của cao đẹp như cảnh từng đội dân phòng giúp dân cứu sập hầm, cảnh
bà con lối xóm giúp đỡ nhau nhặt nhạnh những gì còn sót lại sau trận bom hay
cảnh các y tá, bác sĩ, bệnh nhân ở Bệnh viện Bạch Mai, vẫn bình tĩnh xử lý các
ca bệnh theo trình tự...Giữa hai trận oanh kích, Hà Nội của chúng ta gan góc,
vững vàng đến kì diệu. Trong gian khổ, hoạn nạn, hình như người ta lại thấy
dường như mình thương yêu nhau hơn, sẵn sàng hi sinh để cứu giúp nhau, những
cặp mắt thâm quầng sau nhiều đêm mất ngủ với hàng chục đợt báo động vẫn ánh lên
một cái gì kiên định, tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng, vào một chiến thắng
đang đến rất gần.
Đêm hôm ấy, trong một đợt báo
động kéo dài, ngồi trong căn hầm ở ngay khu vực trọng điểm, ông đã viết bài hát
trữ tình: “Hà Nội, những đêm không ngủ” , ghi lại tình cảm của mình trong những
ngày đầu của đợt tập kích của địch mà lúc đó không biết được lúc nào sẽ kết
thúc, thầm gửi tình yêu thương, nhớ nhung tới vợ con lúc này đang ở nơi sơ tán,
đêm đêm vẫn nhìn về vầng lửa đạn bao trùm cả thủ đô. Đó là một bài tình ca, nhớ
vợ con là chính, song ông vẫn rất tự hào: "Hà Nội đêm nay vẫn vang bài
tình ca, Hà Nội anh hùng thủ đô của chúng ta…” Bởi theo lời kể của ông lúc đạp
xe qua phố Bà Triệu, khi tiếng còi báo động chấm dứt, tiếng hát lời ca vẫn được
dõng dạc ngân vang. Một Hà Nội bình yên sâu lắng đến lạ kỳ sau mưa bom, bão lửa
Ngày 25/12 trôi qua trong yên
bình nhưng đến ngày 26/12, cả Hà Nội rung lên trong tiếng máy bay và tiếng đạn
bom. Khu phố Khâm Thiên đông đúc đã bị ném bom rải thảm. Đau thương, tang tóc
bao trùm lên cả khu phố lao động sầm uất, đông vui trước kia. Tuy nhiên nén đau
thương lại, quân và dân Hà Nội vẫn kiên cường chiến đấu. Nhờ đấy, ngay trong đêm
26/12/1972, Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên thắng lớn. Trong không khí hồ hởi,
ngay sáng hôm sau, 27/12, tại phòng giao ban của Đài tiếng nói Việt Nam, Tổng
giám đốc Trần Lâm thông báo, đêm hôm qua bộ đội ta bắn rơi 8 B52, riêng Hà Nội
đã bắn rơi 5 pháo đài bay, có 4 chiếc rơi tại chỗ.Từ sở chỉ huy tối cao, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp đã biểu dương các đơn vị lập công và ra lời hết lời kêu
gọi: “ Kẻ địch thua đau và nhất định sẽ
thất bại hoàn toàn. Nhưng chúng vẫn ngoan cố kéo dài cuộc tập kịch. Các đơn vị
hãy bắn thật nhiều B.52 hơn nữa, hãy giáng cho không quân Mỹ một đòn “Điện Biên
Phủ” ngay trên bầu trời Hà Nội, thủ đô thân yêu của chúng ta”.
Trong không khí căng thẳng đó
chữ Điện Biên Phủ quả thực có sức mạnh kì lạ. Lời của Đại tướng cùng với quyết
tâm chiến đấu của quân, dân ta đã gây cho ông một niềm xúc động sâu sắc, ý nghĩ
sáng tác bài hát Hà Nội – Điện Biên Phủ bỗng lóe lên tròn trí óc ông. Thế là
trong đêm 27/12, trong một đợt báo động kéo dài, ngồi trong hầm của Đài ở phố
Quán Sứ, giữa lòng Thủ đô rực lửa chiến đấu, những nốt nhạc, những lời ca hùng
tráng và tuôn chảy, bài hát Hà Nội – Điện Biên Phủ đã ra đời. Bài hát thực sự
là một hành khúc đĩnh đạc, khỏe khoắn, hào hùng vừa tha thiết, dạt dào cảm xúc.
“Hà Nội đây/ Đế quốc Mỹ có nghe chăng câu trả lời của Hà Nội chúng ta/ Đây
chỉ vì non nước riêng này/ Phất ngọn cờ sao chính nghĩa/ Hà Nội ơi/ Trong bom
đạn vẫn ngời sáng tương lai/ Ghi chiến công tuyệt vời một “Điện Biên” sáng
chói…”
|
Bài hát Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không |
Sáng ngày 28/12, ông hát cho
mấy anh em trực cùng nghe. Mọi người ai cũng động viên ông nên đưa ngay sang
báo Nhân dân để kịp đăng trong những ngày khói lửa này. Vừa dứt đợt báo động,
đường phố còn vắng teo, ông đã vội vã đạp xe tới tòa soạn báo ở phố Hàng Trống.
Lúc bấy giờ nhà văn Thép Mới, lúc đó là tổng biên tập của tòa soạn đã không nén
nổi ngạc nhiên khi thấy sự xuất hiện của một nghệ sĩ giữa cảnh chiến tranh bom
đạn như thế này, nhưng ông còn ngạc nhiên hơn khi nghe chính người nhạc sĩ đấy
trình bày ca khúc ngay dưới gốc đa ở sân tòa soạn. Chính từ cơ duyên đó, sáng
ngày 29/12, ông đã không thôi cảm động khi được chứng kiến bản nhạc được in
trang trọng trên báo, giữa lúc địch chưa chấm dứt cuộc chiến tranh leo thang. Nhà
báo Hữu Thọ (sau này có thời kì là Tổng biên tập báo Nhân Dân) trong bài hồi kí
“Mười hai ngày tầm vóc thấy cao thêm” in trong tập “ Mười hai ngày ấy” (NXB Văn
học – 1973) có đoạn viết: “ Buổi sáng ngày 28, một anh nhạc sĩ đến gặp Tòa
soạn. Anh mang đến một bản nháp bài nhạc mới làm đêm qua. Trên ghế đá dưới một
gốc đa anh hát cho mấy người nghe. Mọi người đều biết: Bom địch ném vào khu nhà
anh ở. Chiếc dương cầm của anh bị hỏng, nhưng anh muốn đóng góp tâm hồn mình
vào cuộc chiến đấu chung. Bài hát Hà Nội – Điện Biên Phủ ra đời như thế! Hôm
sau bài hát đã đăng trên một tờ báo và Đài phát thanh dựng bài hát đầu tiên về
Hà Nội, mười hai ngày đêm chiến đấu của ta phát đi muôn phương… Và chính đó là
sức mạnh Hà Nội”.
Ngay chiều hôm đó, để cổ vũ
động viên tinh thần chiến đấu của nhân dân ta, các anh em trong ban văn nghệ đã
quyết định làm một chương trình văn nghệ đặc sắc trên đài gồm thơ và nhạc, viết
về những ngày tháng chiến đấu hào hùng của quân và dân Hà Nội. Mặc cho tiếng còi
báo động rền vang, các bác Trần Thụ, Mạnh Hà, Hoàng Mạnh và ông đã quyết tâm
bằng mọi giá phải thu được bài hát, kể cả khi có thể hôm nay hoặc ngay ngày mai
thôi phòng thu có thể bị bom đánh sập. Chính nhờ những nỗ lực đó mà buổi phát
thanh đêm 29/12 đã gây xúc động cho rất nhiều người, không chỉ các chiến sĩ
đang trực tiếp chiến đấu và nhân dân Hà Nội mà âm hưởng của bài hát đã vang
vọng tới cả đồng bào miền Nam. Và cũng trong ngày hôm đấy, khi chiến dịch 12
ngày đêm đang còn tiếp diễn, trong chương trình “ Tiếng hát gửi về miền Nam”,
bài hát đã được phát đi trên làn sóng điện. Có một điều đặc biệt, bài hát ngân
vang khắp hai miền vào đêm 29 thì ngày 30, Mỹ xuống thang ném bom. Nhiều người
dân miền Nam không khỏi xúc động khi thốt lên rằng : “ Hà Nội vẫn đánh giặc,
vẫn ca hát và ngâm thơ, đó là tín hiệu của một ngày chiến thắng không xa”. Để
rồi những ngày tiếp theo, nó đã được tung đi muôn phương, khắp bạn bè năm châu,
bốn bể.
Cũng tại căn phòng nhỏ ở 58 Quán sứ nơi nhạc sĩ và gia
đình tạm trú sau khi khu nhà ông ở bị sập vì bom Mỹ, ông đã khởi thảo bản tổ
khúc hợp xướng 4 chương về 12 ngày đêm lịch sử với tiêu đề Vầng sáng Hà Nội,
sau này được dàn dựng và phát sóng rộng rãi.
Sau này trong bài “ Tâm lý
của người Việt Nam và “phép thử” của Ních – xơn” của giáo sư Phạm Hoàng Gia bài
hát Hà Nội – Điện Biên Phủ cũng được trân trọng nhắc đến “ những
ưu việt của chế độ xã hội, những năng lực tiềm tàng của con người như được phát
triển. “Gian nan nhiều thì suy nghĩ sâu” (Nguyễn Trãi), báo chí, văn nghệ chúng
tôi có thêm những sinh sắc mới, ý tứ hay nẩy nở tuôn trào. Chị công nhân cũng
ngạc nhiên khi thấy mình có thêm cả tài bắn pháo. Anh bạn của tôi, một nhà khảo
cổ học, mất người thân, nhà đổ, lại nẩy thêm cảm hứng của nhà văn. Người nhạc
sĩ quen biết, đàn vỡ và không còn chỗ ở, giữa tiếng bom rền nghe thấy Hà Nội
như đội tiếng súng Điện Biên Phủ; và đối với Hà Nội, bài nhạc mới của anh cũng
có sức thúc đẩy như bản giao hưởng chống phát xít Đức số 7 năm xưa… Tất cả
những điều ấy sẽ giúp cho chúng tôi đứng thẳng, nếu ông chưa hiểu và vẫn tiếp
tục âm mưu dùng sức mạnh…” Trong căn gác nhỏ, ngồi nghe ông kể chuyện viết
nhạc dưới mưa bom lửa đạn trong trận chiến Điện Biên Phủ trên không mới hay,
tinh thần lạc quan của người nhạc sĩ thật đáng nể.Bài hát như một bản hùng ca
về ý chí và hào khí của người Hà Nội trong trận chiến bảo vệ Thủ đô, cũng như
niềm tin chiến thắng trước chiến dịch không kích Hà Nội bằng B52 của đế quốc
Mỹ.
Đọc những dòng tâm sự của một
cựu chiến binh gửi cho nhạc sĩ Phạm Tuyên: “…Những
ai đã sống đúng thời điểm đấy mới cảm thấy hết được sức lay động của ca khúc.
Là một người lính, tôi mang ơn Phạm Tuyên vì ca khúc ấy của ông, nó đã khiến
tôi yên lòng khi nghĩ về Hà Nội và những người than yêu của mình đang dưới tầm
bom hủy diệt. Âm nhạc không chỉ mang đến cảm xúc mà còn giữ cho ta niềm tin và
hi vọng…” chúng ta mới cảm nhận được hết ý nghĩa của bài hát. Được sáng tác
trong một hoàn cảnh đặc biệt, bài hát chính là chứng nhân cho một giai đoạn
lịch sử hào hùng của dân tộc, lời ca hàm chứa một sức mạnh tinh thần to lớn
giúp nhân dân ta thêm vững vàng, kiên định, tin tưởng vào chiến thắng đang đến
rất gần.
Kết thúc buổi phỏng vấn, vẫn với giọng điệu trầm ấm, nhạc
sĩ Phạm Tuyên khiêm tốn nói: “Xin để cho
công chúng và thời gian giám định tác phẩm. Riêng đối với tôi thì đó là một kỉ
niệm khó phai mờ trong cuộc đời sáng tác của mình”. Đồng thời ông cũng bày
tỏ đôi điều trăn trở đối với âm nhạc nước nhà. Theo ông, trong thời kì kháng
chiến, âm nhạc có hai chức năng quan trọng là chức năng cổ vũ và giải trí nhưng
chức năng giải trí bị hạn chế bớt đi, chủ yếu là chức năng cổ vũ, động viên
quân và dân ta chiến đấu. Từ ngày hòa bình được lập lại đến nay, giai điệu, ca
từ trong các bài hát có phần nhẹ nhàng hơn, phù hợp với cuộc sống yên bình hiện
tại nhưng không vì thế mà chúng ta được phép quên đi chức năng cổ vũ của âm
nhạc. Đáng tiếc rằng hiện nay, nhiều bài hát việt đã quá thiên về chức năng
giải trí, chạy theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận khán giả mà ít đề cập
đến các vấn đề lớn của đất nước, của dân tộc làm giảm đi sức mạnh lớn lao của
âm nhạc dân tộc. Qua nhiều trải nghiệm trong sự nghiệp sáng tác, nhạc sĩ Phạm
Tuyên cho rằng: “Tình cảm của người viết
phải hòa nhịp với tình cảm nhân dân, như vậy mới có sự cộng hưởng trở lại”.
Niềm vui lớn đối với nhạc sĩ chân chính không phải là ở lợi nhuận hay danh
tiếng tác phẩm mang lại mà chính là ở việc các bài hát của ông có chỗ đứng
trong lòng công chúng hay không.Với những đóng góp của mình, ông đã được vinh
danh là công dân ưu tú Thủ đô năm 2011 và được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh năm
2012.
Rời căn nhà nhỏ đơn sơ nằm gọn trên tầng ba của một khu
chung cư tương đối yên tĩnh, kín đáo ở khu phố Vạn Bảo, âm hưởng hào hùng nhưng
cũng không kém phần tha thiết của ca khúc Hà Nội – Điện Biên Phủ dường như vẫn
còn vang vọng trong tâm trí của mỗi cá nhân, gợi nhắc thế hệ trẻ chúng tôi
không được phép quên đi những khoảnh khắc hào hùng của lịch sử. Để chúng tôi ý
thức được thêm sâu sắc sứ mệnh thiêng liêng và cao cả của mình là phải cố gắng
giữ gìn chủ quyền thiêng liêng, nền độc lập, tự do của dân tộc mà bao thế hệ
cha anh đi trước đã không tiếc mồ hôi, xương máu để xây dựng và bảo vệ.
Thực hiện Nhóm SV